Nâng cao năng lực ứng dụng công nghệ của các doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0

Đổi mới, sáng tạo và nâng cao năng lực ứng dụng công nghệ là cơ sở giúp doanh nghiệp (DN) cải thiện năng suất lao động và chất lượng sản phẩm. Tuy nhiên, đối với các DN Việt Nam, hầu hết DN hiện nay có quy mô vừa và nhỏ, do nguồn lực còn hạn chế, nên hoạt động đổi mới và ứng dụng công nghệ vẫn chưa thực sự được đầu tư xứng đáng. Vì vậy, cần nghiên cứu và đề xuất các giải pháp để giúp các DN đẩy mạnh đổi mới công nghệ nhằm gia tăng khả năng cạnh tranh trong bối cảnh của cuộc Cách mạng công nghiệp (CMCN) 4.0.

THỰC TRẠNG ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ CỦA DOANH NGHIỆP

Nhằm giúp nền kinh tế nói chung và các DN trong nước nói riêng từng bước thích ứng và bắt nhịp nhanh với sự chuyển đổi mạnh mẽ của công nghệ, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách hỗ trợ, khuyến khích tích cực. Đặc biệt, năm 2020 được đánh giá là năm chuyển đổi số quốc gia và là năm khởi động mạnh mẽ để tiến tới một Việt Nam số. Trước bối cảnh đó, nhiều DN trong nước cũng đã tiên phong tham gia vào các ngành nghề mới hoặc tích cực đổi mới công nghệ cả ở phương diện phần cứng và phần mềm để tồn tại và hội nhập, cụ thể:

Thứ nhất, tận dụng tốt các chủ trương, chính sách hỗ trợ đổi mới khoa học, công nghệ từ Nhà nước để chủ động đổi mới hoạt động của DN

Thông qua việc nắm bắt các chủ trương, chính sách hỗ trợ từ Chính phủ, Bộ Khoa học và Công nghệ, nhiều DN đã chủ động kết nối được với nhiều nguồn cung và cầu công nghệ, giúp nâng cao năng lực cạnh tranh của DN. Đặc biệt, trong quá trình đàm phán chuyển giao công nghệ, nhiều DN đã tiếp cận được với các hoạt động hỗ trợ, như: tư vấn về công nghệ, giải đáp các vướng mắc về pháp lý và thậm chí đã tiếp cận được cả với các nguồn lực tài chính hỗ trợ ứng dụng công nghệ dành cho DN. Không ít ứng dụng tiến bộ trong công nghệ sau khi được chuyển giao cho DN cũng đã phát huy hiệu quả, phục vụ đắc lực cho hoạt động sản xuất, kinh doanh và mang lại lợi nhuận cũng như tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa của DN trên thị trường.

Trên thực tế, không ít DN đã được hỗ trợ chuyển giao, đổi mới công nghệ và nghiên cứu, phát triển sản phẩm mới thông qua các chương trình khoa học và công nghệ quốc gia và chương trình nhà nước, Cục Ứng dụng và Phát triển công nghệ – Bộ Khoa học và Công nghệ. Hằng năm, đơn vị này cũng đã tổ chức các sự kiện kết nối cung – cầu công nghệ với quy mô quốc tế để hỗ trợ DN tiếp cận thông tin công nghệ, chuyển giao, đổi mới công nghệ và hỗ trợ khởi nghiệp. Các DN cũng được hỗ trợ các hoạt động liên kết nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao công nghệ với các trung tâm ứng dụng, chuyển giao công nghệ tại địa phương. Đồng thời, được tiếp cận kết quả nghiên cứu của các viện nghiên cứu, các cơ sở đại học và có cơ hội khai thác các kết quả nghiên cứu khác phục vụ khởi nghiệp đổi mới sáng tạo trong DN…

Thứ hai, tăng cường ứng dụng phần mềm công nghệ nhằm tối ưu hóa hoạt động quản lý – điều hành và sản xuất

Sự phát triển của khoa học, công nghệ đã giúp các DN tiếp cận được với nhiều phần mềm hữu dụng đối với các DN, trong đó có thể kể tới như: phần mềm kế toán, phần mềm quản lý sản xuất, phần mềm quản lý nhân sự, phần mềm quản lý dự án, phần mềm kê khai thuế, bảo hiểm xã hội điện tử… Đây là những công cụ hết sức tiện lợi với nhiều tính năng ưu việt nên có thể giúp các DN nâng cao năng suất lao động, giảm thiểu tối đa chi phí và tăng cường năng lực cạnh tranh trên thị trường so với các DN đối thủ ở cùng lĩnh vực hoạt động.

Trên thực tế, việc triển khai ứng dụng các phần mềm công nghệ hay phần mềm quản lý DN đã và đang giúp các hoạt động phối hợp giữa các phòng ban, bộ phận trong mỗi DN được diễn ra khoa học, nhanh chóng. Không những thế, chúng còn giúp nhà quản lý cập nhật thông tin một cách nhanh chóng, chính xác về tình hình hoạt động, hiệu quả công việc của các bộ phận trực thuộc quản lý cũng như về sự phát triển của DN nói chung.

Hầu hết các phần mềm hiện nay đang được sử dụng tại các DN nhìn chung đều hoạt động trên nền tảng công nghệ hiện đại như công nghệ điện toán đám mây. Đây được coi là giải pháp giúp chuẩn hóa quy trình quản lý DN trên cơ sở áp dụng công cụ công nghệ thông tin vào trong hoạt động quản lý để DN và từng bước chuẩn hóa các quy trình nghiệp vụ, đồng thời đưa các quy trình đó vào sản xuất, kinh doanh.

Ngoài ra, nhiều phần mềm quản lý DN có thể đồng bộ hóa nguồn dữ liệu và cập nhật thông tin theo thời gian thực nhanh chóng với các báo cáo chính xác nên có thể giúp các DN kiểm soát tình trạng vận hành và đưa ra quyết định nhanh chóng. Đây cũng được coi là cơ sở thuận lợi để các DN tăng cường khả năng tiếp cận cũng như thích nghi với thị trường một cách tốt nhất.

Thứ ba, tiên phong lựa chọn các mô hình và phương thức kinh doanh mới dựa trên nền tảng công nghệ 4.0

Sự bùng nổ của cuộc CMCN 4.0 cũng giúp mang lại nhiều phương thức kinh doanh mới dựa trên nền tảng phát triển trực tuyến, như: kết nối vạn vật, dữ liệu lớn, điện toán đám mây, công nghệ tự động hóa trong sản xuất và kiểm soát chất lượng… Điều này không chỉ giúp DN vận dụng để gia tăng năng suất và kiểm soát chất lượng mà còn có thể kết hợp với nhau để đổi mới các hoạt động của DN từ phân tích hành vi của khách hàng, sáng tạo sản phẩm mới, quảng bá sản phẩm, tư vấn trực tuyến, kiểm soát sản xuất và chất lượng tự động, quản lý tài chính, làm việc từ xa…

Lợi thế đó đã và đang tạo ra những cơ hội một cách bình đẳng với tất cả các DN mà không giới hạn hoặc bị phụ thuộc vào loại hình hay quy mô kinh doanh khác nhau. Nhiều DN nhỏ đã biết tận dụng việc đổi mới công nghệ và tối ưu hóa quy trình sản xuất để nâng cao năng suất lao động, cải thiện chất lượng sản phẩm, nâng cao chất lượng khâu tiêu thụ sản phẩm và có chính sách hậu mãi tốt, nên hoạt động khá hiệu quả, thậm chí là vượt trội hơn các DN truyền thống.

Bên cạnh những kết quả tích cực đó từ các DN, theo đánh giá của nhiều chuyên gia kinh tế, nhìn chung, các DN Việt Nam vẫn còn chậm cập nhật công nghệ, chưa bắt kịp với xu thế mới, và thách thức, áp lực cạnh tranh, vì thế còn nhiều vấn đề đáng lo ngại.

Theo số liệu khảo sát của Bộ Công Thương, có tới 61% DN Việt Nam đứng ngoài cuộc CMCN 4.0 và 21% DN mới bắt đầu có các hoạt động chuẩn bị. Còn theo kết quả khảo sát của Phòng Công nghiệp và Thương mại Việt Nam (VCCI), 75% DN sản xuất ở Việt Nam đang sử dụng máy móc hết khấu hao. Các DN Việt Nam vẫn loay hoay không thể thoát ra được những thế hệ máy móc có công nghệ lạc hậu 2-3 thế hệ. Ngoài ra, có tới 24% DN đang sử dụng công nghệ ở mức trung bình và chỉ có 1% DN sử dụng công nghệ tiên tiến (Hà Thị Hương Lan, 2019).

Có thể thấy, số lượng DN Việt Nam sử dụng công nghệ tiên tiến trong những năm gần đây có tăng, song còn khá chậm dẫn đến năng lực cạnh tranh chưa cao. Nguyên nhân của thực trạng này phụ thuộc vào nhiều yếu tố ảnh hưởng đến khả năng đổi mới công nghệ của DN, như: tiềm lực tài chính của DN; giới tính, độ tuổi của người lao động trong DN; quy mô và loại hình DN… Mặt khác, các tổ chức làm nhiệm vụ môi giới và dịch vụ trong thị trường công nghệ để kết nối giữa nguồn cung và cầu công nghệ cũng còn hạn chế. Các nhà khoa học cũng chưa có điều kiện tiếp cận và thuyết phục được nhiều các DN thương mại hóa các kết quả nghiên cứu của mình…

NHỮNG GIẢI PHÁP CẦN THỰC HIỆN

Một là, đổi mới cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển khoa học, công nghệ đối với DN, đặc biệt là DN nhỏ và vừa

Theo đó, trước mắt, cần tiến hành rà soát đánh giá việc thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về khoa học – công nghệ liên quan để các nội dung cụ thể cần sửa đổi, bổ sung nhằm tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi cho DN phát triển. Cùng với đó, cải cách mạnh mẽ hơn nữa để tạo điều kiện thuận lợi cho DN phát triển dựa trên khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.

Tăng cường liên kết, hợp tác với các DN FDI cũng như các DN ở các quốc gia phát triển trên thế giới là điều kiện thuận lợi nhằm giúp các DN Việt Nam nắm bắt tiêu chuẩn, kỹ thuật mới và tiếp cận tri thức, công nghệ mới.

Nhà nước cũng cần ưu tiên tập trung đầu tư cho hoạt động đổi mới công nghệ. Đồng thời đổi mới, đồng bộ cơ chế quản lý khoa học, công nghệ, nhất là về cơ chế tài chính nhằm đẩy nhanh việc đổi mới công nghệ của DN, ứng dụng các tiến bộ khoa học, công nghệ vào sản xuất, kinh doanh. Theo đó, cần tăng cường liên kết, thúc đẩy vai trò của DN, các cơ quan quản lý, các tổ chức khoa học, công nghệ và tăng cường hợp tác với các quốc gia có trình độ công nghệ cao… Đây cũng là giải pháp thúc đẩy khoa học, công nghệ trong nước phát triển nhanh, không bị tụt hậu so với các nước trong khu vực và thế giới.

Ngoài ra, Nhà nước cần có các chính sách hỗ trợ nguồn vốn, cho vay vốn với lãi suất ưu đãi, thời gian trả nợ dài để DN mạnh dạn đầu tư; xây dựng các kênh thông tin để DN thường xuyên cập nhật các công nghệ tiên tiến trên thế giới. Mặt khác, có những chính sách về thuế nhập khẩu đối với các sản phẩm, thiết bị trong nước đã sản xuất được; hỗ trợ đào tạo về nhân lực, tư vấn, thẩm định công nghệ và có các chính sách hỗ trợ đầu ra cho sản phẩm mới mà DN phát triển…

Các tỉnh, thành phố tập trung thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ hỗ trợ DN đổi mới công nghệ, áp dụng quy trình quản lý theo tiêu chuẩn đo lường chất lượng, truy xuất nguồn gốc và nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm hàng hóa (HL, 2020).

Các Sở Khoa học và Công nghệ tại các địa phương cần tham mưu cho tỉnh, thành phố ban hành giải pháp, cơ chế, chính sách tháo gỡ khó khăn cho DN khoa học và công nghệ, DN khởi nghiệp sáng tạo, DN công nghệ cao để đẩy mạnh sản xuất và làm động lực khuyến khích các DN khác tăng cường ứng dụng khoa học, công nghệ trong sản xuất, kinh doanh và phát triển.

Hai là, xây dựng cơ sở dữ liệu về công nghệ mới, công nghệ tiên tiến và lực lượng chuyên gia công nghệ

Trước mắt, Nhà nước cần thiết lập hệ thống cơ sở dữ liệu cập nhật đầy đủ và công bố công khai về chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước; về chiến lược quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành, lĩnh vực, vùng kinh tế; về các kế hoạch, chương trình, dự án hoạt động của Nhà nước (trừ những chương trình, dự án bí mật quốc gia); thông tin về công nghệ mới, công nghệ tiên tiến; thông tin về hoạt động, nghiên cứu trao đổi, tham khảo của các cơ quan, tổ chức về mọi mặt liên quan đến đời sống của DN, cũng như kinh nghiệm quốc tế.

Cùng với đó, khẩn trương đổi mới lĩnh vực giáo dục, đào tạo, dạy nghề theo hướng hội nhập quốc tế, tạo và bổ sung để phát triển nguồn nhân lực có kỹ năng phù hợp, có thể tiếp thu và làm chủ công nghệ thời kỳ CMCN 4.0.

Đây là giải pháp thiết thực giúp hỗ trợ nâng cao năng lực hội nhập đón nhận CMCN 4.0 cho DN, trong đó đặc biệt quan tâm đến các DN nhỏ và vừa. Các DN khi đó có thể tham gia hiệu quả hơn vào các chuỗi giá trị toàn cầu và đóng vai trò dẫn dắt trong các chuỗi giá trị nội địa và các cụm công nghiệp. Nhà nước cần quan tâm hỗ trợ nghiên cứu, sản xuất thử nghiệm, ứng dụng công nghệ tiên tiến, đào tạo, thuê chuyên gia thiết kế, sản xuất sản phẩm mới và thay đổi quy trình công nghệ. Đặc biệt, bám sát triển khai các quy định được nêu ra tại Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa và Nghị định số 39/2018/NĐ-CP, ngày 11/3/2018 của Chính phủ quy định quy định chi tiết một số điều của Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, đặc biệt là hỗ trợ hình thành các cơ sở ươm tạo DN khoa học và công nghệ nghiên cứu, ứng dụng và sản xuất sản phẩm mới.

Ba là, tăng cường hỗ trợ chuyển giao công nghệ đối với các DN Việt Nam

Bên cạnh vai trò hoạch định chính sách vĩ mô đối với các DN, Nhà nước còn có trách nhiệm hướng dẫn các nhà khoa học tham gia thương mại hóa sản phẩm. Đồng thời, dẫn dắt và khuyến khích các DN tiếp cận, khai thác ứng dụng và đầu tư cải tiến công nghệ trong sản xuất kinh doanh. Hay nói cách khác, Nhà nước cần thực hiện đồng thời 3 nhiệm vụ: (1) Khuyến khích, giúp đỡ nhà khoa học trở thành các doanh nhân công nghệ; (2) Hướng dẫn, hỗ trợ DN thuần túy trở thành DN công nghệ; (3) Thu hút, thúc đẩy các nhà khoa học, nhà đầu tư, doanh nhân, DN và các tổ chức tư vấn, dịch vụ tham gia thị trường công nghệ.

Với sự hỗ trợ của Nhà nước, nếu DN khởi nghiệp thành công, Nhà nước có thể thu về nguồn thuế thu nhập DN, thuế chuyển nhượng vốn từ các DN hay từ các nhà đầu tư cho DN khởi nghiệp công nghệ. Đây cũng là động lực cho các DN khởi nghiệp công nghệ, những tổ chức hỗ trợ khởi nghiệp và những nhà đầu tư mạo hiểm cho khởi nghiệp công nghệ, qua đó góp phần phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp. Những ưu đãi về thuế còn góp phần thu hút các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài có tiềm lực tài chính quan tâm đầu tư nhiều hơn cho khởi nghiệp công nghệ ở trong nước.

Bốn là, nâng cao tiềm lực tài chính cho các DN Việt Nam\

Do đa phần DN Việt Nam là các DN nhỏ và vừa, tiềm lực tài chính còn hạn chế nên ảnh hưởng lớn tới mức độ ưu tiên đầu tư cho đổi mới công nghệ trong sản xuất, kinh doanh. Do đó, bên cạnh sự tự thân của các DN này, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ về tài chính thông qua các nguồn vốn vay từ ngân hàng, vốn hỗ trợ từ Nhà nước để nghiên cứu, đầu tư những công nghệ thích hợp phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh. Tăng cường mở rộng hợp tác, quan hệ với DN cùng ngành, các tổ chức tín dụng để không chỉ giúp DN có thêm thông tin kinh doanh, mà còn giúp mở rộng nguồn vốn có khả năng tiếp cận.

Sau khi được hỗ trợ, các DN này nên xem xét việc áp dụng đổi mới công nghệ theo từng giai đoạn. Theo đó, DN có thể phân nhỏ quá trình đầu tư theo chu kỳ kinh doanh hoặc xem xét cải tiến từng công đoạn nhằm giảm sức ép về vốn đầu tư. Có như vậy mới đảm bảo ứng dụng hiệu quả yếu tố công nghệ và hạn chế tối đa những rủi ro có thể xảy đến, do đầu tư về công nghệ là vấn đề thường xuyên, lâu dài và đòi hỏi nguồn vốn không hề nhỏ.

Năm là, tăng cường liên kết, hợp tác với các DN có vốn đầu tư nước ngoài

Kinh nghiệm thành công của các DN thế giới cho thấy, bộ phận nghiên cứu và phát triển trong một DN rất quan trọng, cho dù hoạt động trong lĩnh vực nào, từ tiêu dùng (P&G) đến sản xuất (Toyota). Các DN đều đề cao nhiệm vụ nghiên cứu và phát triển (R&D) để đưa ra những phát kiến, sản phẩm và cải tiến mới phục vụ tốt nhất nhu cầu thị trường.

Do vậy, việc tăng cường liên kết, hợp tác với các DN có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), cũng như các DN ở các quốc gia phát triển trên thế giới là điều kiện thuận lợi nhằm giúp nắm bắt tiêu chuẩn, kỹ thuật mới và tiếp cận tri thức, công nghệ mới đối với các DN Việt Nam. Đây cũng được coi là giải pháp đi tắt đón đầu hiệu quả nhất. Tuy nhiên, để đạt được hiệu quả tối đa khi tiếp nhận tri thức, công nghệ mới, các DN trong nước cần chuẩn bị tốt về yếu tố nhân lực để có thể hấp thụ tốt nhất thành quả của tiến bộ công nghệ toàn cầu…

Riêng đối với các DN FDI, cần xác định đây là một thành phần không thể tách rời của nền kinh tế Việt Nam. Chính phủ cần có chính sách khuyến khích thu hút nhưng cũng yêu cầu các DN FDI cần xây dựng mối quan hệ tương hỗ với các thành phần DN khác trong nước với phương châm cùng lớn mạnh, cùng phát triển; tăng cường sự liên kết với các DN trong nước, thực hiện chuyển giao kiến thức, công nghệ cho các DN Việt Nam để tạo dựng hệ sinh thái DN hiệu quả, bền vững.

Nguồn: https://tapchitaichinh.vn/tai-chinh-kinh-doanh/nang-cao-nang-luc-ung-dung-cong-nghe-cua-cac-doanh-nghiep-viet-nam-trong-boi-canh-cach-mang-cong-nghiep-40-338417.html

Chia sẻ:

Share on facebook
Share on twitter
Share on linkedin

Bài viết mới